Ngay từ trong bụng mẹ đứa trẻ đã có sự giao tiếp. Cái bào thaisống và hoạt động cùng với nhịp sống và hoạt động của người mẹ.Quan hệ giữa người mẹ với thai nhi không chỉ đơn giản về mặt sinhhọc. Không chỉ đơn thuần là người mẹ truyền dinh dưỡng cho đứacon qua rau thai mà còn có những ảnh hưởng về mặt tâm lý của trẻsau này do những biến động tâm lý của người mẹ khi mang thai….

Đang xem: Những vấn đề chung về giao tiếp

*

Phần I: Những vấn đề chung về giao tiếp sư phạm CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIAO TIẾP Cách đây không lâu, vào những năm 80 của thế kỷ XX, đàitruyền hình thành phố Hồ Chí Minh có truyền hình trực tiếp buổi giaolưu giữa Việt kiều yêu nước về quê ăn tết với khán gỉa của đài truyềnhình. Có một chị Việt kiều ở Cộng hòa liên bang Đức (lúc đó còn hainước Đức) tâm sự rằng : “Chị có một người bạn Việt Nam lấy mộtngười chồng ở Cộng hòa liên bang Đức, chị ấy không biết tiếng Đức,chồng lại chỉ biết bập bõm tiếng Việt, chồng là công nhân đi làm suốtngày. Cả ngày chị ở nhà không biết nói chuyện với ai, dịch vụ viễnthông lúc đó lại khó khăn. Mặc dù cuộc sống về vật chất đầy đủ,nhưng quá buồn nên chị sinh bệnh…rồi chết”. Giao tiếp không phảichỉ là hình thức trò chuyện với nhau, nhưng giao tiếp bằng ngôn ngữlà một hình thức giao tiếp quan trọng nhất. Qua ví dụ trên cho thấygiao tiếp có vai trò rất quan trọng trong đời sống và hoạt động của conngười. • Ngay từ trong bụng mẹ đứa trẻ đã có sự giao tiếp. Cái bào thaisống và hoạt động cùng với nhịp sống và hoạt động của người mẹ.Quan hệ giữa người mẹ với thai nhi không chỉ đơn giản về mặt sinhhọc. Không chỉ đơn thuần là người mẹ truyền dinh dưỡng cho đứacon qua rau thai mà còn có những ảnh hưởng về mặt tâm lý của trẻsau này do những biến động tâm lý của người mẹ khi mang thai. Chonên khi mang thai, người mẹ phải kiêng nói và làm những việc khôngtốt, không được xúc động mạnh. Chẳng hạn, phong tục lúc người vợcó mang, người chồng phải kiêng sát sinh “ Không được cắt cổ gà,thiến cổ chó”. Thậm chí lúc có thai, người mẹ còn phải đi đứng nóinăng nhẹ nhàng. Có như vậy sau này đứa trẻ ra đời và lớn lên mớiphát triển bình thường về thể chất và tinh thần. • Khi đứa trẻ ra đời, giao tiếp của nó được đặc biệt quan tâm.Có nhiều tập quán truyền thống ảnh hưởng đến việc tiếp xúc củangười mẹ với đứa trẻ. Có địa phương và gia đình rất cẩn thận như :Không nói lớn, không để người lạ vào phòng trẻ sơ sinh nhất là đứatrẻ dưới một tháng tuổi, sợ trẻ bị vía, bị đẹn. Thậm chí khi cần phảibế bé đi xa, các bà già còn cẩn thận bôi nhọ vào mặt trẻ, cầm dao,cầm kéo… đi theo để tránh hơi độc, vía lạ. Như vậy, từ xa xưa, trongvốn kinh nghiệm của các dân tộc, việc giao tiếp với đứa trẻ được coi 1trọng để cơ thể và đời sống tinh thần của đứa trẻ được phát triểnbình thường. • Suốt quãng đời thơ ấu, đứa trẻ không chỉ có nhu cầu ăn, nhucầu dinh dưỡng mà còn có những nhu cầu khác như : nhu cầu đượccưng chiều, nâng niu, bế ẳm, vỗ về… Mới sinh ra đứa trẻ đã biếtnhiều lắm, đòi hỏi nhiều thứ, trước hết là đòi hỏi trao đổi, giao tiếp.Chúng gọi ra, phát ra có kẻ khác đáp lại. Người mẹ không chỉ là baoche, làm cái lá chắn, ngăn chặn , không để quá nhiều kích thích từ bênngoài tấn công vào các giác quan, vào cơ thể non nớt của con. Mẹ cònđáp ứng lại những tín hiệu của con phát ra. Con đưa mắt mẹ cũngnhìn lại, con líu lo mẹ cũng bi bô nói lại, con vặn mình mẹ cũng đổitư thế ngồi nằm cho hai cơ thể thoải mái, ôm ấp lấy nhau. Con nắmđồ vật gì ném ra, mẹ lượm trả lại..Rồi con chập chững biết đi, mẹdang hai tay ra đón, bé cố đứng dậy bước năm, bảy bước rỗi ngã vàolòng mẹ… Có thể nói rằng : “ Được áp vào lòng mẹ để bú, được mẹ bếbồng, địu lên lưng là có dịp trao đổi, giao tiếp với mẹ. Mẹ hiểu con,con hiểu mẹ, không phải thông qua lời nói, chữ viết như thường lệmà qua những mối quan hệ phi ngôn ngữ, đúng hơn là tiền ngôn ngữqua “xác thịt”. Đó là quan hệ “ruột thịt” nền tảng đầu tiên của mốiquan hệ giữa người và người. Mối quan hệ thân thiết nhất, cơ bảnnhất. Không được bú mớm, bế bồng, ôm ấp, hú hí, chơi đùa với mẹ,đứa trẻ không thể thành người. Vì vậy, toàn bộ nội dung tiếp xúc với đứa trẻ của người mẹ,người thân trong gia đình từ khi lọt lòng đến toàn bộ thời thơ ấu vàsau này trẻ đến trường học là tiến trình xã hội hóa của một cá nhânthành nhân cách. Trong quá trình xã hội hóa của một cá nhân, giao tiếplà hạt nhân, là điều kiện cần thiết để phát triển tâm lý, nhân cách củamỗi người. • Đời sống tâm lý của mỗi người, của mỗi nhóm xã hội phảilấy giao tiếp làm cơ sở. Không có giao tiếp đứa trẻ sẽ không thànhngười, không có giao tiếp nhiều chức năng tâm lý người, nhiều phẩmchất tâm lý cá nhân không được hình thành và phát triển. Trong quátrình lao động, cải tạo tự nhiên, xã hội bản thân con người luôn luônlấy sự tiếp xúc tâm lý giữa con người và con người, con người vớiquan hệ xã hội làm trung tâm. Cho đến nay, trong phong tục của mộtsố ít bộ lạc Châu Phi vẫn còn tồn tại một hình phạt cao nhất cho 2những ai vi phạm “ Luật lệ của bộ lạc là đuổi ra khỏi cộng đồngkhông cho tiếp xúc với con người, phạm nhân phải sống trong rừngvới thiên nhiên và hoang thú. • Sự giao tiếp giữa con người được phát triển cùng với sự pháttriển nền kinh tế xã hội. Ngày nay do sự phát triển của khoa học, kỹthuật. Dịch vụ viễn thông, mạng Internet phát triển làm cho chúng tacó thể giao tiếp được với nhau một cách dễ dàng. Tuy nhiên, trong khinghiên cứu, các nhà khoa học xã hội cũng đã khái quát các sự kiện giaotiếp của con người qua hai xu thế chung nhất : • Nhìn chung, các loại hình giao tiếp của con người tăng lên,đặc biệt là giao tiếp không chính thức, đó là những kiểu giao tiếp diễnra trong những hoàn cảnh cụ thể như : đi tàu xe, cùng nhau xem phim,xem biểu diễn văn nghệ, thực hiện một nhiệm vụ cùng nhau, mộtcông việc cùng nhau trong một thời gian nhất định… mà các đối tượnggiao tiếp không nhất thiết phải cùng một cơ quan hoặc hiểu biếtnhau, thậm chí cũng không cần nhớ tên, tuổi, địa chỉ của nhau. Loạigiao tiếp này có đặc điểm : • Giao tiếp theo vụ việc. • Nhất thời, không liên tục. • Giao tiếp cá nhân mỗi người có chiều hướng co hẹp lại vềphạm vi và mức độ, con người ít cởi mở với nhau, người ta giải thíchrằng những hoạt động “cộng đồng”, “tập thể”, dường như giảm đi,cuộc sống thu vào các căn hộ gia đình. Gia đình cũng có xu hướng thunhỏ lại (hai thế hệ thay vì ba, bốn thế hệ như gia đình trước đây. Giao tiếp là gì? Hiện nay tồn tại nhiều khái niệm giao tiếp khác nhau, đứng trêncác quan điểm khoa học xã hội, kinh tế , tâm lý học…thậm chí ngaytrong khoa học tâm lý cũng tồn tại nhiều khái niệm giao tiếp. Để hiểugiao tiếp là gì, chúng ta có thể xem xét giao tiếp qua các đặc trưng nhưsau : 1. Giao tiếp là một quá trình con người ý thức được mục đích,nội dung và những phương tiện cần đạt được khi tiếp xúc với ngườikhác. Trong quá trình giao tiếp thì cả đối tượng và chủ thể giao tiếpđều ý thức được những nội dung và diễn biến tâm lý của mình trong 3giao tiếp. Nhờ đặc trưng này, chúng ta dễ dàng nhận ra được mụcđích của quá trình giao tiếp, giao tiếp để làm gì ? nhằm mục đích gì ? 2. Giao tiếp diễn ra nhằm trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm,thế giới quan, nhân sinh quan, nhu cầu … của những người tham giavào quá trình giao tiếp. Đặc trưng này có vai trò rất lớn trong sự hìnhthành và phát triển nhân cách con người. • Giúp cho mỗi người tự hoàn thiện mình theo yêu cầu đòi hỏicủa nghề nghiệp, của các quan hệ xã hội mà họ là thành viên. • Nếu giáo viên không tự học, tự bồi dưỡng mà chỉ bằng lòngvới kiến thức học 4 năm ở trường Đại học thì sẽ không đáp ứng đượcyêu cầu đòi hỏi của nghề nghiệp. • Qua giao tiếp mà những phẩm chất tâm lý của con người,những hành vi ứng xử của con người được nảy sinh và phát triển. • Nhờ giao tiếp mà quá trình xã hội hóa mới thực chất hòa nhậpmỗi cá nhân vào các hoạt động của nhóm, cộng đồng, dân tộc, địaphương. 3. Qua giao tiếp giúp con người nhận thức, hiểu biết lẫn nhau.Sự nhận thức, hiểu biết lẫn nhau vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả,phải nhận thức dù là ít ỏi về đối tượng giao tiếp của mình. Có nhưvậy kết quả giao tiếp mới thành công. Có nhận thức được nhau mớihiểu biết lẫn nhau. Nếu thầy giáo không hiểu học sinh thì việc xử lýhọc sinh sẽ gặp nhiều khó khăn. Thầy giáo không hiểu học sinh thìviệc xử lý học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn. Quan hệ xã hội chỉ đượcthực hiện trong giao tiếp giữa con người với con người. Con ngườivừa là một thành viên tích cực của các quan hệ xã hội với tư cách tạolập nên các quan hệ xã hội như pháp quyền, kinh tế, văn hóa… với tưcách vừa là hoạt động tích cực cho nên tồn tại và phát triển của chínhcác quan hệ xã hội đó. Chẳng hạn, trong dạy học và giáo dục quan hệ giữa thầy giáovà học sinh là một quan hệ xã hội đích thực, một tồn tại xã hội kháchquan do cả hai phía thầy và trò tạo dựng. Thiếu vắng thầy, học trò sẽkhông có quá trình dạy học và giáo dục. Quá trình này được tiến hànhtrong hoạt động giao tiếp giữa thầy giáo và học sinh được quy định rõràng qua nội quy học sinh, qua những quy định, quyền hạn và tráchnhiệm của thầy giáo. 4 5. Giao tiếp được tiến hành trong một thời gian, không gian vàcác điều kiện cụ thể. Nói cách khác, giao tiếp cá nhân mang tính chấtlịch sử phát triển lịch sử xã hội loài người. 6. Cá nhân trong giao tiếp vừa là chủ thể vừa là khách thể củagiao tiếp. Trong quá trình dạy học, học sinh vừa là khách thể, vừa làchủ thể. Qua phân tích trên, ta có thể hiểu : Giao tiếp là một quá trìnhtiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích trao đổi tưtưởng, tình cảm, vốn kinh nghiệm sống, kỹ năng, kỹ xảo nghềnghiệp. Giao tiếp là một phương thức tồn tại của con người Khi nghiên cứu học phần tâm lý học đại cương, chúng ta đã gặpkhái niệm cá nhân. Cá nhân là một con người cụ thể với tư cách làmột thành viên của một xã hội nhất định, sống và hoạt động trongnhững điều kiện xã hội và lịch sử nhất định, có nghĩa vụ và quyền lợinhất định. Rõ ràng, khi nói đến con người cụ thể, họ phải có tên gọi,nghề nghiệp, giới tính, gia đình. Sống và hoạt động ở trong một nhómxã hội nhất định có quyền lợi và nghĩa vụ nhất định. Họ có những giátrị vật chất (nhà cửa, ruộng vườn, xí nghiệp…) và giá trị tinh thần(dòng họ, vị trí xã hội, trình độ văn hóa, chuyên môn…) Về đời sống tâm lý, họ có ý thức, ngôn ngữ, tư duy trừu tượng,niềm tin cá nhân. Cũng ở phần tâm lý học đại cương đã khẳng địnhcon người không thể tồn tại và phát triển được nếu con người bị táchkhỏi xã hội loài người. Điều này đã được xã hội loài người thửnghiệm với mục đích khác nhau : Ví dụ : Từ thế kỷ XII một quốc vương gần chân núi Hymalaya(vùng Aán Độ) nhà vua cho rằng tín ngưỡng là bẩm sinh đối với conngười. Quần thần không tin vào lời phán truyền của vua, để chứngminh niềm tin của mình, nhà vua đã bắt 4 đứa trẻ sơ sinh cho vào mộttu viện nuôi, cắt đứt mọi quan hệ xã hội. Mười hai mùa xuân trôi qua,4 đứa trẻ được nuôi sống không được tiếp xúc với mọi người. Kếtquả chúng đi bằng 4 chân, hú, gào, nhìn thấy nhà sư những đứa trẻnày cũng phản ứng như đối với với mọi người – mắt nhìn sợ hãi,cùng với tiếng hú dài… Thế là niềm tin vào tôn gíao ( đạo Phật )không bẩm sinh mà ra rồi trường hợp bé nia và Kamala ở Ấn Độ 5không may vừa sinh ra bị rơi ngay vào bầy chó sói. Những đứa trẻ nàykhông biết nói, đi bằng 4 chân, ăn, ngũ như sói con vậy. Hàng chục thử nghiệm đã chứng minh nếu không giao tiếp vớicon người, với các quan hệ xã hội, đứa trẻ sẽ không trở thành người. Dù muốn hay không muốn, mỗi cá nhân đều phải sống trongmột hoàn cảnh thiên nhiên, ở một địa phương nhất định, một xã hộinhất định, một giai cấp, một tầng lớp, một gia đình nhất định. Cá nhânkhông thể tránh khỏi quan hệ này và không thể không chịu ảnh hưởngcủa những quan hệ đó. • Trước hết, để có thể tham gia và các quan hệ xã hội, giao tiếpvới người khác, thì con người phải có một tên riêng, do gia đình ( ông,bà, cha, mẹ…) đặt cho. Nói chung, cái tên gọi nó cũng gắ n với một ýnghĩa nhất định. Suy cho cùng, tên gọi là đặc trưng rất cơ bản, khởinguồn của con người xã hội. Lich sử xa xưa của xã hội loài ngườicũng đã có thời kỳ gọi tên rất khác nhau, ở mức độ khái quát đơn giản,chỉ nhằm phân biệt giới tính “ Cái hĩm”, “thằng cò”. Cùng với sự pháttriển của xã hội, tên gắn với bộ tộc, dòng họ, ám chỉ một cội nguồnxã hội ra đời của đứa trẻ. Rồi tên gọi thời thơ ấu, lúc vào trường học,thời điểm đi làm, lúc trưởng thành, sắp chết lại có một tên hiệu, “ têncúng cơm” • Khi trưởng thành, con người có nghề nghiệp, mà nghề nghiệplại do xã hội sinh ra và quy định. Muốn có nghề, phải hành nghề, phảicó nghệ thuật giao tiếp với mọi người thì mới thành đạt trong hoạtđộng. Chẳng hạn, để bán được hàng, người ta có thể tăng hoặc giảmgiá một mặt hàng nào đó. • Để có được giá trị vật chất, tinh thần riêng cho mình, thuộcvề quyền sở hữu của mình, cá nhân phải hoạt động tích cực với tưcách là một chủ thể có ý thức. • Một giá trị tinh thần chỉ có thể có được thông qua giao tiếp.Chẳng hạn, muốn trở thành một nghệ sĩ ưu tú. Ngoài việc có giọnghát hay, có trình độ âm nhạc còn phải say mê và có nghệ thuật biểudiễn trước công chúng. Không thể chỉ ở nhà đóng cửa lại hát mộtmình mà có thể trở thành nghệ sĩ ưu tú. • Để có giá trị vật chất, con người phải lao động chân tay, laođộng trí óc cộng với sự giúp đỡ, kích thích, hướng dẫn của nhiềungười. Không giao tiếp với mọi người, ngay cả thức ăn cũng không 6đủ để cho sự tồn tại cho chính mình đừng nói đến sự phát triển nhâncách một cách trọn vẹn. • Một phương tiện quan trọng để giao tiếp, một đặc trưng chocon người là tiếng nói, ngôn ngữ. Đứa trẻ phải được học nói dưới sựhướng dẫn từng âm thanh của mẹ, của mọi người tromng gia đình. “Trẻ lên 3 cả nhà học nói”. Chức năng và các loại giao tiếp 1. Chức năng giao tiếp: Có nhiều cách khác nhau để phân chia các chức năng của giaotiếp.Ở góc độ là một phạm trù của tâm lý học hiện đại thì giao tiếpcó các chức năng như sau : a. Chức năng định hướng hoạt động của con người. Người giáo viên trong quá trình giảng dạy có thể chỉ nhìn vàonét mặt của học sinh, sự phản ứng của học sinh trước lời giảng củamình mà nhận ra được mức độ nắm tri thức của học sinh. Nhờ đógiáo viên điều chỉnh lại cách dạy của mình để quá trình dạy học đạtkết quả cao. Hay một học sinh có nhiều lần đi học trễ, một học sinhnhiều lần không thuộc bài, em khác đi học thất thường, buổi đi, buổinghỉ… đều gợi lên trong suy nghĩ của thầy giáo một hướng giáo dụctìm kiếm những thông tin chính xác để có những biện pháp giáo dụcthích hợp. Đứng về phía học sinh, qua lời giảng của thầy, cô giáo, cácem ý thức được trình độ chuyên môn, những nét tính cách cơ bản củagiáo viên đó.

Xem thêm: Bảng Ngọc Và Cách Lên Đồ Lee Sin Tank, Cách Lên Đồ, Bảng Ngọc Bổ Trợ Lee Sin Tốc Chiến

Xem thêm: Top 75+ Phim Thái Lan Hay Nhất 2022 Bùng Nổ Rating 5 Sao, Phim Võ Thuật Thái Lan Hay Nhất 2020

Nhờ đó, các em có những phản ứng trả lời phù hợp vớitừng thầy, cô. Ví dụ : Cô dạy Toán rất nghiêm, không làm bài tập về nhà làkhông được với cô ; thầy dạy Lý dễ tính có thể quên làm bài tập ởnhà cũng được ; cô dạy Văn thì muốn thế nào cũng được cô đồng ý… Trong cuộc sống đời thường, nhất là đối với những người lạchưa quen biết, lần tiếp xúc đầu tiên thường là vừa giao tiếp, vừathăm dò để hiểu đối tượng tiếp xúc của mình. Mỗi lời nói, cử chỉ, ánhmắt, nụ cười đều bao hàm những khía cạnh thông tin quan trọng đểgiúp chúng ta giao tiếp có hiệu quả. Qua phân tích trên, chúng ta có thể rút ra kết luận : 7 Quá trình giao tiếp giúp chúng ta khả năng xác định các mức độnhu cầu, tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm… của đối tượnggiao tiếp. Nhờ đó, chủ thể giao tiếp đáp ứng kịp thời, phù hợp vớimục đích và nhiệm vụ giao tiếp. b. Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi. Giao tiếp là quá trình tiếp xúc có mục đích, nội dung và nhiệmvụ cụ thể. Nói một cách khác con người ý thức được cần phải làmgì ? Cần đạt được những gì ? Đó là mặt nhận thức. Trong thực tiễnkhi tiến hành giao tiếp không ít trường hợp chủ thể giao tiếp phải linhhoạt, tùy điều kiện, thời cơ mà thay đổi, lựa chọn phương tiện ( kểcả ngôn ngữ, cách diễn đạt, giọng điệu…) tùy đối tượng giao tiếp màứng xử. Chẳng hạn, có lần Khổng Tử ( 551 – 479 TCN ) đang dạy học,học trò Tử Lộ hỏi thầy “một việc tốt có nên làm ngay không ?”Khổng Tử trả lời “Bàn bạc với người lớn chút đã rồi hãy làm !”. Lầnkhác học trò Nhiễm Hữu cũng hỏi thầy câu hỏi trên. Ông trả lời “Đương nhiên nên làm ngay đi !”.Tại sao cùng một câu hỏi mà KhổngTử lại trả lời mỗi trò một khác ? Bởi vì, Tử Lộ làm việc hay dông dài,bộp chộp, vội vàng, hấp tấp, còn Nhiễm Hữu trước việc làm gì vẫnthường nhút nhát, do dự, không dám làm nên Khổng Tử cổ vũ anh tamạnh bạo làm ngay. Phương pháp giáo dục cá biệt thể hiện rất rõ chức năng này củagiao tiếp. Giáo dục phải phù hợp trong hoàn cảnh cụ thể, từng conngười cụ thể, từng công việc, từng loại tiết học ..mới có thể đạtđược chất lượng, hiệu quả cao. Phải qua giao tiếp với học sinh,chúng ta mới điều chỉnh được các biện pháp giáo dục của mình phùhợp với từng học sinh. Trong đời sống sinh hoạt thường ngày, có biếtbao nhiêu điều chúng ta đã trãi qua, cảm nhận do không xem xét linhhoạt, mềm dẻo trong giao tiếp mà xảy ra những chuyện hiểu nhầmtrong tình cảm thầy trò, đồng nghiệp thậm chí ngay cả đối với vợ con,cha mẹ… Giao tiếp còn có chức năng đặc thù xảy ra chính trong khi tiếpxúc giữa con người và con người. Các nhà tâm lý học B.Ph.Lomov ;A.A.Bodaliov…đã chia giao tiếp làm ba loại chức năng : a. Chức năng thông tin ( thông báo, truyền tin ) 8 • Chức năng này có cội nguồn sinh học, để thông báo cho nhaumột tin tức gì đó. Ở động vật thường phát ra âm thanh (ở mức độ tínhiệu đơn giản, bản năng, ăn uống, tự vệ, sinh đẻ, bảo toàn giống loài) Ví dụ : tiếng ré lên của con khỉ đầu đàn khi gặp con trăn – cảđàn bỏ chạy tán loạn. • Ở người nội dung thông tin rất phức tạp, rất xã hội. Chẳnghạn, Thầy giáo nhận được một lá thư của một em học sinh cũ củatrường thông báo về sự trưởng thành của em trong quân đội. Thầy hồitưởng lại quá khứ 10 năm về trước bóng dáng mảnh mai của cậu họctrò nghịch ngợm… • Chức năng thông tin có cả ở hai phía của quá trình giao tiếp( chủ thể – đối tượng giao tiếp ) Chẳng hạn, Nhà nước ban hành mộtchế độ mới, nhà nước cũng phải nắm thông tin phản hồi của dânchúng để điều chỉnh chế độ, chính sách. • Muốn quản lí, điều hành một nhóm xã hội, một lớp học, lớnhơn nữa là một huyện, một tỉnh, cấp nhà nước phải có thông tin. Cóthông tin đúng, chính xác, nhanh mới điều hành có hiệu quả. • Để đạt được mục đích điều hành trong quản lí, tổ chức trongnhóm xã hội nhất thiết phải thông qua giao tiếp ( giao tiếp trực tiếp,gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin khác nhau). b. Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi (như đã nêu và phântích ở phần trên ). c. Chức năng đánh giá thái độ của giao tiếp. Trong giao tiếp conngười bao giờ cũng biểu hiện những thái độ nhất định như : thiệncảm, thờ ơ, lãnh đạm, vồn vã, cởi mở, chân thành, dấu diếm, trungthực… Như trên đã phân tích giao tiếp bao giờ cũng được một conngười cụ thể thực hiện, thái độ của cá nhân bao giờ cũng được bộc lộtrong tiến trình giao tiếp. • Trong quá trình giao tiếp, đối tượng giao tiếp có kinh nghiệmdự đoán được chủ thể giao tiếp của mình muốn gì qua giọng điệu,hành vi, cách ứng xử… từ ánh mắt, nụ cười, nhịp điệu ngôn ngữ nói( ngập ngừng, mạch lạc, ngắn gọn, đanh lạnh…) đều chứa đựng mộtthái độ, sắc thái khác nhau. Đại văn hào Nga, Leptontôi đã tổng kếtđược trên 80 ánh mắt thể hiện các sắc thái khác nhau của xúc cảm vàtình cảm con người. • Ý nghĩa của việc đánh giá thái độ của nhau trong giao tiếp gópphần quan trọng làm cho hiệu quả giao tiếp đạt mức cao. Chẳng hạn, 9trong dạy học, giáo viên gặp tâm trạng sợ sệt của học sinh khi khôngthuộc bài. Nhìn ánh mắt lấm lét của học sinh khi đang làm bài kiểmtra, sớm muộn cũng bộc lộ hành vi gian dối… Nhờ sự trung thực nàytrong giao tiếp, chúng ta hiểu nhau hơn, dễ dàng tiếp xúc với nhau đểhoàn thành những công việc chung của trường, lớp và xã hội. Nếu xét chức năng giao tiếp trong một quá trình giao tiếp,thường trong tâm lý học xã hội, người ta chia làm các loại sau : a. Chức năng liên kết (nối mạch – tiếp xúc) Bản chất của chức năng này là nhờ có giao tiếp, con người hợpđồng được với nhau để làm việc cùng nhau, hiểu nhau, liên hệ đượcvới nhau. Xuất phát từ nhu cầu tránh cô đơn của con người, nhu cầugiao tiếp sớm xuất hiện ở con người, từng lứa tuổi cường độ nhu cầunày mạnh, yếu khác nhau. Đứa trẻ ( từ lọt lòng đến một tuổi) rất cầnđược bế ẳm, vỗ về mà các nhà tâm lý học trẻ em gọi là nhu cầu gắnbó với người mẹ. Đối với học sinh trung học cơ sở, nếu bị hình phạtkhông cho tiếp xúc với những người xung quanh, thì hình phạt nàykhủng khiếp biết chừng nào. Cảm giác an toàn thôi thúc con người kếtđoàn với nhau. b. Chức năng đồng nhất. Là sự hòa nhập của cá nhân vào nhịp sống và hoạt động củamột nhóm xã hội ( gia đình, lớp học, tổ sản xuất…) con người cảmthấy mình là một phần máu thịt của tổ ấm gia đình, tổ chuyên môn,hội đồng nhà trường … “ Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ ” Các thành viên trong nhóm chia vui, san sẻ nổi buồn với nhau…Nhờ chức năng này mà con người thành đạt trong các quan hệ xã hội. c. Chức năng đối lập, đối kháng. Là sự bất đồng tâm lý của cá nhân với các thành viên trongnhóm, cộng đồng. 2 . Các kiểu loại giao tiếp a . Căn cứ vào sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thểvà đối tượng giao tiếp, người ta chia làm hai loại : – Giao tiếp trực tiếp Chẳng hạn, sự tiếp xúc của thầy giáo và học sinh trên lớp, sinhhoạt tổ chuyên môn, sự gặp gỡ những người quen biết… là giao tiếptrực tiếp. Giao tiếp trực tiếp là loại giao tiếp được tiến hành đồng 10thời một thời điểm có mặt cả đối tượng và chủ thể giao tiếp. Loạigiao tiếp này có đặc điểm : • Có thể sử dụng ngôn ngữ phụ ( giọng điệu, nhịp điệu, cườngđộ lời nói) và những phương tiện ngôn ngữ (nét mặt, cử chỉ, điệubộ…) để nhấn mạnh hoặc thể hiện thái độ. • Giao tiếp trực tiếp rất linh hoạt, mềm dẻo, tùy hoàn cảnh,tùy phản ứng của đối tượng giao tiếp mà ta ứng xử cho phù hợp. – Giao tiếp gián tiếp Những trường hợp giao tiếp được thực hiện qua các phươngtiện trung gian ( thư từ, báo chí, truyền thanh, truyền hình v.v…) là giaotiếp gián tiếp. Giao tiếp gián tiếp là loại giao tiếp mà đối tượng giao tiếpkhông có mặt ở thời điểm cần tiếp xúc. Loại giao tiếp không tậndụng được những ưu điểm của giao tiếp trực tiếp nhất là qua ngônngữ viết. Tuy nhiên, nếu tiếp xúc qua điện thoại thì giọng điệu, cáchphát âm… giúp cho đối tượng giao tiếp ở xa hiểu thêm thái độ của chủthể giao tiếp. b. Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ hoạt động của nhóm xã hội,cá nhân mà người ta chia giao tiếp ra làm hai loại : – Giao tiếp chính thức Ví dụ : giao tiếp giữa vợ chồng, con cái, cha mẹ được luật hônnhân và gia đình qui định (tuổi kết hôn, quyền lợi, trách nhiệm…), giaotiếp giữa thầy giáo và học sinh được pháp luật qui định … là giao tiếpchính thức. Giao tiếp chính thức là sự giao tiếp giữa các thành viên trongmột nhóm xã hội hoặc các nhóm xã hội chính thức, nghi thức giao tiếpđược dư luận xã hội hoặc pháp luật, phong tục tập quán qui định. – Giao tiếp không chính thức Chẳng hạn, sự giao tiếp giữa các cá nhân trên một chuyến xe,tàu ; những người cùng xem phim, nghệ thuật, cùng mua hàng… Giaotiếp không chính thức là sự giao tiếp giữa các cá nhân trong nhómkhông chính thức với nhau. c. Trong tâm lý học xã hội, người ta chia giao tiếp thành ba loại : – Giao tiếp định hướng – xã hội : Chẳng hạn, nhân viên sở địachính đến khu dân cư ven lộ để thông báo việc mở rộng lộ giới vàvận động bà con tự giác di dời. Như vậy, giao tiếp định hướng – xãhội là loại giao tiếp mà chủ thể giao tiếp với tư cách là đại diện cho 11xã hội nhằm truyền tin, thuyết phục hoặc kích thích đối tượng giaotiếp hoạt động. – Giao tiếp định hướng – nhóm: Là loại giao tiếp mà chủ thểgiao tiếp với tư cách là đại diện cho một nhóm xã hội nhằm mục đíchgiải quyết những vấn đề do nhóm đặt ra trong học tập, sản xuất, kinhdoanh, chiến đấu… – Giao tiếp định hướng – cá nhân: Là loại giao tiếp mà chủ thểgiao tiếp không đại diện quyền lợi cho nhóm xã hội nào cả mà hoàntoàn vì mục đích cá nhân, xuất phát từ động cơ, nhu cầu, hứng thú, xúccảm của cá nhân. Dựa vào khoảng cách không gian để người ta đánhgiá mức độ thân mật hay xã giao, thân tình hay vì trách nhiệm. Khoảngcách không gian giữa chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp tathường gặp : • Từ 400 cm tở lên : giao tiếp xã giao • Từ 120 cm đến 400 cm : thân mật • Từ 45 cm đến 120 cm : tình cảm • Từ 45 cm trở xuống : rất tình cảm Giao tiếp và sự phát triển nhân cách 1 . Giao tiếp giúp con người có dáng đi thẳng và cách ứng xửcủa con người. Để cho trẻ biết đi đứng dáng người thì ông, bà, cha,mẹ và người lớn xung quanh phải dạy cho trẻ tập đi. Không có nhữnglần dắt tay bé đi, cho bé men theo thành giường, bậc cửa … thì làm saotrẻ biết đi giống người. Không có sự tiếp xúc của người lớn, trẻkhông có dáng đi của người. Sau khi trẻ biết đi, người lớn làm mẫu dạy trẻ ai cho gì, cháumuốn lấy phải đưa hai tay ra đón, miệng nói “ con cám ơn !”… Khi được ăn trẻ gián tiếp tiếp xúc với con người qua sản phẩmcủa họ. Trước khi ăn trẻ đều nhìn người lớn ăn, làm mẫu để chúngtập cầm muỗng, cầm đũa… ăn đúng như người lớn, phong cách ăn củangười – con người có nhân cách. 2 . Giao tiếp giúp con người hình thành và phát triển ngôn ngữ: Trẻ sinh ra chưa biết nói, hơn một năm tuổi, trẻ được người lớndạy phát âm “ ba ba”, “măm, măm”… lúc đầu một từ, một âm đơngiản, kèm với âm thanh, cha mẹ và người lớn xung quanh dung điệubộ, cử chỉ, ánh mắt và đồ vật và gọi tên đồ vật đó. Dần dần trẻ hiểu 12được ngôn ngữ và sử dụng được ngôn ngữ đơn giản để thỏa mãn mộtsố nhu cầu sinh học, nhận thức của trẻ. Suốt cả đời người, con người vẫn còn phải học, nhiều kháiniệm mới xuất hiện trong quá trình con người cải tạo tự nhiên, cảitạo xã hội. Cách nói, cách dùng từ, nhịp điệu ngôn ngữ … thể hiện conngười có nhân cách, phải nhờ có tiếp xúc với những người xungquanh. Nhân cách được hình thành và phát triển chính trong quá trìnhgiao tiếp. 3. Trí tuệ của con người được hình thành và phát triển trong quátrình giao tiếp với những người xung quanh. Thông qua giao tiếp hàng loạt các chức năng tâm lý được hìnhthành như : tưởng tượng, tư duy, ý thức, những chức năng tâm lý nàytạo thành một chất lượng tâm lý mới, đó là trí tuệ của con người. Các cụ đã từng nói : “ Học ăn, học nói, học gói, học mở ”. Dướisự hướng dẫn của người lớn, trẻ học cách nhìn, cách nghe, cách nghĩ,cách hành động, ứng xử phù hợp với quy luật tự nhiên, xã hội trongquá trình cải tạo tự nhiên, xã hội, cải tạo chính mình để trở thành mộtnhân cách. 4. Giao tiếp giúp cho lao động của con người mang tính xã hội,tính tập thể. Lao động của con người trớc hết đặc trưng ở sự liên kết giữacác cá nhân, phối hợp, điều hòa theo sự phân công lao động của xãhội. Lao động liên kết cùng nhau phải thông qua sự tiếp xúc, giao tiếpvới nhau theo sự phân công của xã hội. Không có giao tiếp sẽ khôngcó lao động. Đơn giản và cổ xưa nhất khi kéo một vật nặng mà cầnsức của nhiều người, người ta hô lên “ Hò dô ta nào ”, một tín hiệugiao tiếp trong lao động. Lao động ở dạng phức tạp hơn nữa thể hiện trong nền côngnghiệp hiện đại, mỗi người một mắt xích dây chuyền công nghệ,không giao tiếp thì không hiểu ý nghĩa công việc của mình làm. 5. Ýthức của con người được hình thành và phát triển trong quá trình giaotiếp với những người xung quanh. Ý thức được hình thành cùng với sự ra đời của ngôn ngữ, laođộng, trên nền tảng của sự phát triển hoạt động nhận thức ở mức độnhận thức nhất định. Năng lực làm chủ hành động, ngôn ngữ, thái độcủa mình trong các quan hệ người đó là biểu hiện của ý thức. 13 Năng lực đó chỉ được hình thành và phát triển trong giao tiếp vớinhững người xung quanh, các quan hệ xã hội mà con ngườiaang sốngvà hoạt động. Học sinh có ý thức làm bài đầy đủ, học thuộc bài ở nhà, chuẩnbị bài đầy đủ, chu đáo khi đến lớp học, được hình thành và phát triểnqua nhiều lần, nhiều năm học, nhiều thầy cô rèn luyện mới có được ýthức đó, như vậy, thiếu giao tiếp với thầy cô, học sinh sẽ không có ýthức học tập nghiêm túc. 14

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *